image banner
Kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cả cuộc đời vì nước, vì dân” (19/5/1890 - 19/5/2025)
Lượt xem: 110

I. Thân thế sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969):

1. Từ thời thơ ấu đến lúc trưởng thành (1890-1911):

Chủ tịch Hồ Chí Minh tên gọi lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, sinh ngày 19/5/1890 tại làng Hoàng Trù (quê ngoại) xã Kim Liên- huyện Nam Đàn- Nghệ An. Nguyễn Sinh Cung sống trong tình thương yêu và chăm sóc của cha mẹ và ông bà ngoại. Ông ngoại là Hoàng Đường dạy chữ nho, bà ngoại là Nguyễn Thị Kép làm ruộng. Cha là Nguyễn Sinh Sắc (sau đổi là Nguyễn Sinh Huy) đỗ Phó bảng, mẹ là Hoàng Thị Loan (dệt vải và làm ruộng).

Nguyễn Sinh Cung sinh ra trong hoàn cảnh đất nước chìm đắm trong đêm trường nô lệ của thực dân Pháp. Từ lúc ấu thơ đến khi trưởng thành, Nguyễn Tất Thành đã trực tiếp chứng kiến ách thống trị dã man của thực dân- phong kiến đối với nhân dân, đồng thời cũng chứng kiến các phong trào yêu nước bất khuất của nhân dân ta chống lại bọn cướp nước và bán nước. Nhưng các phong trào đó đều thất bại.

Thực tiễn bi hùng đó cùng với sự giáo dục của gia đình về truyền thống đấu tranh anh dũng, về truyền thống đạo lý nhân ái của dân tộc đã hình thành nên nhân cách ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành giàu lòng yêu nước, thương dân.

Sinh ra và lớn lên trong 1 gia đình có truyền thống nho học, thông qua những người thầy là nhà nho yêu nước. Qua đó người được trang bị những tinh hoa của văn hoá phương đông, trở thành vốn tư tưởng phong phú của Người khi ngồi trong ghế nhà trường, Người đã được tiếp cận với nền văn minh phương tây qua khẩu hiệu: “Tự do, bình đẳng, bắc ái” đã khơi dậy ở người thanh niên ham hiểu biết những điều ẩn dấu sau khẩu hiệu nói trên.

2. Quá trình Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang bị khủng hoảng về đường lối cứu nước, các cuộc khởi nghĩa của: Phan Chu Chinh, Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… bị thất bại. Ngày 05/6/1911 Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng (Sài Gòn) ra nước ngoài tìm đường cứu nước trên con tàu Amiran-Lautusơ-Tơrêvin. Sau 1 tháng vượt biển, ngày 06/7 tàu cập cảng Macxay, một hải cảng quan trọng của nước Pháp. Người sang Pháp rồi tiếp tục cuộc hành trình vòng quanh Châu Phi và dừng lại ở Mỹ khoảng 1 năm (từ cuối năm 1912 đến 1913). Từ năm 1914 đến năm 1917, Nguyễn Tất Thành sống tại Luân Đôn-Anh, tới năm 1917 trở lại nước Pháp.

Quá trình lao động kiếm sống tạo điều kiện để người tiếp xúc với những người lao động, thấu hiểu tình cảnh và nỗi cơ cực của họ. Ở tất cả các nước thuộc địa Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La tinh, người nhận thấy ở đâu các dân tộc bị áp bức cũng có cõi khổ như nhau, đều có kẻ thù chung là Chủ nghĩa Thực dân, đế quốc.

Năm 1917, Cách mạng tháng 10 Nga thành công, người có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và Lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin. Năm 1919, các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ Nhất họp hội nghị tại Véc xây để chia lại thị trường thế giới. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị bản “yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, bình đẳng, dân chủ của nhân dân ta. Nguyện vọng chính đáng đó không được chấp nhận người rút ra kết luận: “Các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của mình. Tháng 12/1920. Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Ngày 1/4/1922 Báo LeParia (Người cùng khổ) do Nguyễn Ái Quốc làm chủ bút ra số đầu tiên. Năm 1924 người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên Thường trực Bộ Phương đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Trong thời gian này Người viết nhiều bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân bóc lột tàn bạo các nước thuộc địa. Những bài báo ấy là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc hoàn thành biên soạn quyển “Bản án chế độ thực dân Pháp” năm 1925, đã mở ra 1 giai đoạn mới trong những lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa.

Tháng 6/1925 tại Quảng Châu- Trung Quốc, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng. Từ năm 1925 đến năm 1927, được sự giúp đỡ của các nhà cách mạng Trung Quốc, Người mở lớp huấn luyện cán bộ cho những người yêu nước Việt Nam. Tập đề cương bài giảng của Người được xuất bản thành sách nhan đề: “Đường Kách mệnh” năm 1927. Hoạt động của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên trong việc truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin vào phong trào cách mạng đã làm thay đổi tính chất cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống thực dân, phong kiến, từ tự phát chuyển sang tự giác.

Từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1929, trong nước xuất hiện 3 tổ chức Cộng sản Đảng: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn nhưng lại thiếu sự thống nhất trong hành động. Trước tình hình đó, ngày 03/02/1930 đến ngày 07/02/1930 Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc tế Cộng sản triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành 1 Đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Người trực tiếp soạn thảo như: Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt và điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mac-Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Từ năm 1930 đến năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động ở nước ngoài đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức khác trong điều kiện vô cùng khó khăn và gian khổ; đặc biệt là tháng 6/1931 Người bị thực dân Anh bắt giam ở Hồng Kông. Lúc này sự cấu kết giữa thực dân Anh và Pháp trong việc đàn áp những người Cộng sản thực sự đe doạ sinh mạng của Người. Được sự giúp đỡ của Quốc tế, cứu tế đỏ và Luật sư Lô dơ bai, Nguyễn Ái Quốc trắng án trở lại Liên Xô vào đầu năm 1934.

Ngày 28/01/1941 sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh về đến tổ quốc, Người đặt bước chân đầu tiên lên đất Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Từ đây Người bước vào một cuộc hành trình gian khổ mới, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng, Hội nghị khẳng định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và hoàn chỉnh đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chí Minh, khi thời cơ đến cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền-cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà.

Năm 1946 tổng tuyển cử tự do trong cả nước, thông qua hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khoá I đã bầu người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Với cương vị đứng đầu Đảng cầm quyền và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, thực hiện nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu”.

Sau khi Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, năm 1955 Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng Xã hội chủ nghĩa và xây dựng CNXH ở Miền Bắc, đồng thời giải phóng Miền Nam thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.

Từ năm 1960 đến năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân chống chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở Miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, góp phần tăng cường đoàn kết Quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sỹ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào Cộng sản Quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Người được tổ chức giáo dục khoa học, văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) phong danh hiệu: Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà Văn hoá lớn của thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất ngày 02/9/1969, hưởng thọ 79 tuổi.

II. Một số nội dung cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển của giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Đồng thời báo cáo chính trị cũng chỉ rõ tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung chủ yếu, cụ thể là:

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân vì dân.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư về “đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”, Đảng ta đã và đang triển khai sâu rộng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh. Xuất phát từ cơ sở khoa học và thực tiễn chúng ta thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng những chân lý bền vững, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và xác nhận. Cụ thể là:

Thứ nhất, vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, thể hiện trước hết trong việc hoạch định đường lối, chính sách, phương pháp, bước đi của cách mạng nước ta.

Thứ hai, một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là “lấy dân làm gốc”, xác định “mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân: Đảng và nhà nước cũng như mọi cán bộ, công chức phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hết lòng chăm sóc mọi mặt đời sống nhân dân, thực sự là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách lược trong một thời kỳ, một giai đoạn cách mạng, mà là chiến lược cơ bản lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc tới công tác xây dựng Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Trước hết nói về Đảng”, Người rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng. Người cho rằng mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Người luôn đòi hỏi ở mỗi người, nhất là người cán bộ cách mạng, phải có đạo đức cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài, trong đó đức là gốc.

Thứ tư, Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong những tác phẩm, bài nói, bài viết và toàn bộ cuộc đời của Người. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất giữa tư tưởng và hoạt động thực tiễn, giữa lời nói và việc làm, đồng thời Người nghiêm khắc đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thực hiện yêu cầu đó. Người dạy chúng ta quyết tâm không phải lời nói mà phải trong công tác, trong hành động. Để đạt được điều đó, đối với một Đảng, không thể dừng lại ở chủ trương, đường lối mà phải có các biện pháp thích hợp và đặc biệt phải có quyết tâm thực hiện.

III. Những sự kiện lớn trong đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch

1911: Lấy tên là Văn Ba, ngày 05/6/1911 Hồ Chủ tịch xuống làm phụ bếp dưới tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, đi ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Trước tiên, người đến nước Pháp.

1912-1917: Người sống, học tập và rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp. Người còn đi nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu Mỹ (1911-1912) để tìm hiểu cuộc sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Năm 1914, Người sang nước Anh.

1917-1919: Từ Anh trở về Pháp (1917), Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước. Lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây bản yêu sách nổi tiếng “Quyền của các dân tộc” (1919).

1920: Người tìm thấy ở “Đề cương vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ Ba, trở thành một trong những người Cộng sản Việt Nam đầu tiên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

1921-1922: Người sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), xuất bản tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria), viết cuốn sách nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”.

1923-1924: Người đến Liên Xô, dự Hội nghị Quốc tế Nông dân (10/1923) và được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Là đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội thứ Năm của Quốc tế Cộng sản, Người đọc bản tham luận quan trọng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (7/1924).

1924-1927: Tháng 12/1924, lấy tên là Lý Thuỵ, Người đến Quảng Châu Trung Quốc, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng, sáng lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên”, một tổ chức tiền thân của Đảng, trong đó có nòng cốt lãnh đạo là Cộng sản đoàn (1925); xuất bản tờ báo “Thanh niên”. Người tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”. Tác phẩm nổi tiếng của Người, “Đường Kách mệnh”, được xuất bản (1927).

1927-1929: Rời Trung Quốc, Người qua Liên Xô (4/1927), Đức, Pháp, rồi đi Bỉ dự Hội nghị chống chiến tranh đế quốc ở Bruy-xen, sau đó qua Thuỵ Sỹ, Ý. Từ mùa thu năm 1928, Người hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), xuất bản tờ báo “Thân ái” để tuyên truyền cách mạng trong kiều bào và gửi về nước.

1930: Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Người từ Thái Lan sang Trung Quốc, triệu tập Hội nghị thành lập Đảng vào ngày 03/02/1930 ở Cửu Long, Hương Cảng, nhằm thống nhất 3 tổ chức Cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

TỪ NƯỚC NGOÀI, HỒ CHỦ TỊCH CHỈ ĐẠO CÁCH MẠNG TRONG NƯỚC: (1930-1939)

1930-1933: Từ Trung Quốc, Hồ Chủ tịch theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Với cương vị Uỷ viên Bộ Phương Đông, Phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế Cộng sản, Người góp phần quan trọng vào việc xây dựng phong trào cách mạng ở một số nước Đông Nam Á.

Tháng 6/1931, Hồ Chủ tịch (lúc ấy lấy tên là Tống Văn Sơ) bị đế quốc Anh bắt ở Hương Cảng. Với sự giúp đỡ của Luật sư người Anh Lô-dô-bai, mùa xuân năm 1933, Người được trả tự do.

1933-1937: Người đi Liên Xô, học trường Đại học Lênin, rồi công tác ở Viện nghiên cứu những vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Tháng 7/1935, Người tham gia Đại hội thứ 7 của Quốc tế Cộng sản.

1938-1940: Người trở lại Trung Quốc (1938) tiếp tục chỉ đạo cách mạng trong nước. Cuối năm 1939, lấy tên là Hồ Quang, Người xuống Hoa Nam để bắt liên lạc với Trung ương Đảng và chuẩn bị điều kiện về nước hoạt động. Cuối tháng 12/1940, Người về đến biên giới Việt- Trung.

HỒ CHỦ TỊCH VỀ NƯỚC, CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO TOÀN DÂN CHUẨN BỊ TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1941-1945)

1941: Lấy tên là Già Thu, Hồ Chủ tịch về đến Pac Bó (Cao Lạng xưa, Cao Bằng nay) ngày 8/2/1941. Người chủ trì Hội nghị thứ 8 của Trung ương Đảng (5/1941), quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội (gọi tắt là Việt Minh), xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

1942-1943: Lấy tên là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc (8/1942) để liên lạc với các lực lượng cách mạng chống Nhật của người Việt Nam ở đó. Nhưng vừa qua biên giới, Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam hơn 1 năm, qua nhiều nhà tù ở Quảng Tây. Trong thời gian ấy, Người sáng tác tập thơ “Nhật ký trong tù”. Tháng 9/1943, Người được trả tự do.

1944-1945: Người trở về Cao Bằng, ra chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” (12/1944). Tháng 5/1945, Người về Tân Trào (Hà Tuyên). Tháng 8/1945, theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của đảng và quốc dân Đại hội đã họp và quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Người được Quốc dân Đại hội bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ tịch đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.

HỒ CHỦ TỊCH CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO TOÀN DÂN ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954):

1945: Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân tăng cường đoàn kết; chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm. Người kêu gọi đồng bào Nam Bộ anh dũng kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược.

1946: Người được Quốc hội khoá I bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (2/3/1946). Theo sáng kiến của Người, “Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam” (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập (5/1946). Thực hiện chủ trương “Hoà để tiến”, Người ký với Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Tháng 5/1946, Người sang nước Pháp và ký với Chính phủ Pháp Tạm ước 14/9/1946.

Do dã tâm xâm lược của Thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, cuộc chiến tranh lan ra khắp cả nước. Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.

1947-1950: Người lên Việt Bắc cùng Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến trong cả nước. Người viết cuốn “Sửa đổi lối làm việc (1947), ra “Lời kêu gọi thi đua yêu nước” (1948). Trong chiến dịch biên giới (9/1950), Người đích thân ra mặt trận, trực tiếp tham gia chỉ đạo kháng chiến.

1951: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (2/1951), Người được bầu làm chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

1952-1954: Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chủ trương  mở cuộc vận động “Chỉnh Đảng, chỉnh quân, chỉnh đốn công tác quần chúng (1952); quyết định phát động quần chúng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến (1953). Người chủ toạ Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quyết định tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (1954)

HỒ CHỦ TỊCH CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XHCN Ở MIỀN BẮC VÀ CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM (1954-1965).

1954-1957: Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng lãnh đạo việc hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế, hàn gắn những vết thương chiến tranh (1954-1957); chủ trương cải tổ mặt trận liên Việt, thành lập MTTQ Việt Nam (9/1955). Người lần lượt đi thăm Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác; dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng đi dự Lễ kỷ niệm 40 năm cách mạng tháng 10 Nga, dự Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN và Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân thế giới ở Mat-xcơ-va (11/1957).

1958-1960: Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng lãnh đạo công cuộc cải tạo XHCN và bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá ở Miền Bắc, đồng thời đưa phong trào cách mạng Miền Nam tiến lên. Người đi thăm hữu nghị một số nước ở Châu Á (1958-1959). Người được Quốc hội khoá II bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đầu năm 1960, Người viết bài quan trọng: “Ba mươi năm hoạt động của Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Người dẫn đầu đoàn địa biểu Đảng ta đi dự Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân thế giới ở Mat-xcơ-va (11/1960).

1961-1964: Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Miền Bắc đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH. Người từ chối đề nghị của Quốc hội tặng Người Huân chương Sao vàng, và mong rằng đến ngày Tổ quốc thống nhất, đồng bào Miền Nam sẽ trao cho Người phần thưởng cao quý đó. Người triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt (3/1964), kêu gọi: “Mỗi người phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào Miền Nam ruột thịt”. Tháng 4/1964, Người được Quốc hội khoá III bầu lại làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.

HỒ CHỦ TỊCH CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA TOÀN DÂN TỘC TA (1965-1969)

1965-1968: Trước hành động điên cuồng của giặc Mỹ đưa quân vào Miền Nam mở rộng chiến tranh xâm lược và tiến hành chiến tranh phá hoại đối với Miền Bắc, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Lúc này chống Mỹ cứu nước làm nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước” (1965), “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (1967). Người đặt lá cờ: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” làm giải thưởng luôn lưu cho toàn quân. Người viết bài quan trọng: “Cách mạng tháng 10 vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” (10/1967).

1969: Người viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, chỉ đạo việc soạn thảo điều lệ HTX sản xuất nông nghiệp bậc cao, tự tay sửa chữa bản dự thảo và viết lời giới thiệu.

Lúc 9 giờ 47 phút ngày 02/9/1969 Hồ Chủ tịch qua đời. Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc lịch sử.

Với thắng lợi vĩ đại của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ giải phóng hoàn toàn Miền Nam, nhân dân ta đã thực hiện trọn vẹn lời căn dặn trong Di chúc thiêng liêng của Người “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to là Pháp và Mỹ…”.

                                     Phòng Văn hóa, Khoa học và Thông tin huyện

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image
image advertisement
image advertisement

anh tin bai

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

image advertisement

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1